Hội chứng stevens johnson là gì? Các công bố khoa học về Hội chứng stevens johnson

Hội chứng Stevens-Johnson (hay còn được gọi là SJS) là một bệnh lý hiếm gặp nhưng nguy hiểm của da và niêm mạc. Bệnh này thường xảy ra do một phản ứng dị ứng th...

Hội chứng Stevens-Johnson (hay còn được gọi là SJS) là một bệnh lý hiếm gặp nhưng nguy hiểm của da và niêm mạc. Bệnh này thường xảy ra do một phản ứng dị ứng thuốc.

SJS được xác định bởi các triệu chứng như sự xuất hiện của các vết ban đỏ trên da, đau, sưng, hoặc viêm trong niêm mạc mắt, miệng, âm đạo và hậu môn. Bệnh có thể bắt đầu ngay sau khi bắt đầu sử dụng thuốc hoặc trong các ngày sau đó.

SJS có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng và nguy hiểm như viêm đến mức làm hư tổn niêm mạc và da, gây sẹo và suy giảm chức năng của các bộ phận đã bị ảnh hưởng. Trong trường hợp nặng, SJS có thể gây ra một biến thể nghiêm trọng hơn gọi là hội chứng Lyell, hoặc hội chứng cấp tính da toàn thể, có thể gây tử vong.

Sự chẩn đoán và điều trị SJS cần được tiến hành ngay lập tức. Việc ngừng sử dụng thuốc gây ra phản ứng, điều trị các triệu chứng và quản lý chăm sóc da và niêm mạc là quan trọng để ngăn chặn sự lan rộng và giảm thiểu biến chứng của bệnh.
Hội chứng Stevens-Johnson (SJS) là một bệnh lý da và niêm mạc hiếm gặp, nhưng có thể gây nguy hiểm tính mạng. Bệnh thường xuất hiện sau phản ứng dị ứng với thuốc, trong đó hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các mô da và niêm mạc.

Các triệu chứng ban đầu của SJS thường bao gồm sự xuất hiện của các vết ban đỏ trên da, đau, sưng và viêm trong niêm mạc mắt, miệng, âm đạo và hậu môn. Da có thể trở nên đau nhức, nhạy cảm và nổi mụn. Các triệu chứng thường bắt đầu trong vòng một đến ba tuần sau khi bắt đầu sử dụng thuốc gây phản ứng.

SJS có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng và nguy hiểm. Một biến thể nặng hơn của bệnh gọi là hội chứng Lyell, hoặc hội chứng cấp tính da toàn thể, có thể xảy ra. Đây là trạng thái nguy hiểm, trong đó da và niêm mạc bị hủy hoại rộng rãi. Hội chứng Lyell có tỷ lệ tử vong cao vì khả năng gây ra nhiễm trùng và mất nước nhanh chóng của da.

Chẩn đoán SJS thường dựa trên các triệu chứng và dấu hiệu rõ ràng của bệnh. Nhưng việc xác định nguyên nhân chính xác của bệnh có thể khó khăn, vì nhiều thuốc khác nhau có thể gây ra phản ứng tương tự. Một xét nghiệm được gọi là kiểm tra rechallenge có thể được thực hiện để xác định xem thuốc gây ra bệnh hay không.

Trong trường hợp chẩn đoán SJS, việc ngừng sử dụng thuốc gây ra phản ứng là quan trọng. Bệnh nhân có thể được áp dụng trị liệu y tế để kiểm soát và giảm triệu chứng. Điều trị bao gồm sử dụng thuốc kháng viêm, thuốc kháng histamin, thuốc giảm đau và thuốc kháng sinh nếu cần thiết để ngăn ngừa nhiễm trùng.

Quản lý chăm sóc da và niêm mạc là rất quan trọng trong việc điều trị SJS. Bệnh nhân thường được cung cấp băng trên da, thuốc bôi trị liệu và nguyên tắc chăm sóc cao cấp để giảm hiện tượng tổn thương da và niêm mạc.

Việc nhận diện và chẩn đoán SJS sớm, cùng với việc ngừng sử dụng nguyên nhân gây bệnh, là cực kỳ quan trọng để giảm thiểu biến chứng và tăng khả năng phục hồi.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hội chứng stevens johnson":

Chăm sóc bệnh nhân hội chứng Stevens-Johnson/Lyell: Báo cáo ca bệnh
Hội chứng Stevens-Johnson/Lyell (SJS/TEN) là phản ứng da và niêm mạc cấp tính, đe dọa mạng sống của người bệnh. Việc chẩn đoán sớm, có kế hoạch chăm sóc và điều trị phù hợp giúp giảm thiểu tỷ lệ tử vong và các biến chứng của bệnh. Chúng tôi báo cáo một ca bệnh dị ứng carbamazepine, tổn thương da và niêm mạc điển hình, được chẩn đoán xác định hội chứng Steven-Johnsons và có kế hoạch chăm sóc dinh dưỡng hộ lý phù hợp, sau 10 ngày điều trị đã ổn định và ra viện, không để lại di chứng gì. Từ khóa: Chăm sóc bệnh nhân, hội chứng Steven-Johnsons/Lyell.
#Chăm sóc bệnh nhân #hội chứng Steven-Johnsons/Lyell
So sánh một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng Stevens - Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc
Hội chứng Stevens - Johnson (SJS) và hoại tử thượng bì nhiễm độc (TEN) là các phản ứng nặng, thường do thuốc, nguy cơ tử vong cao. Tuy được xếp vào cùng nhóm bệnh nhưng trên lâm sàng, SJS thường có biểu hiện nhẹ hơn. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này từ tháng 01/2018 tới tháng 10/2019 nhằm so sánh một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nồng độ huyết thanh granulysin, các cytokin của nhóm SJS và nhóm TEN. Kết quả cho thấy tỷ lệ viêm phế quản phổi ở nhóm TEN cao hơn nhóm SJS (p < 0,05); tỷ lệ thương tổn niêm mạc miệng ở nhóm SJS cao hơn nhóm TEN (p < 0,05); tỷ lệ dị ứng do allopurinol ở nhóm SJS cao hơn nhóm SJS (p < 0,05); thời gian nằm viện của nhóm TEN cao hơn nhóm SJS (p < 0,01). Nồng độ IFN - γ của nhóm TEN cao hơn nhóm SJS (p < 0,001), còn nồng độ granulysin, TNF - α, IL - 2, IL - 4, IL - 5 và IL - 13 không có sự khác nhau giữa hai nhóm.
#Từ khóa: hội chứng Stevens-Johnson #hoại tử thượng bì nhiễm độc #IFN-γ #granulysin #TNF-α
Nổi mụn nước không chàm do tiêm Immunoglobulin tĩnh mạch trong Hội chứng Stevens-Johnson Dịch bởi AI
American Journal of Clinical Dermatology - Tập 10 - Trang 339-342 - 2012
Immunoglobulin tĩnh mạch (IVIG) đã nổi lên như một phương pháp điều trị đầy hứa hẹn trong việc ngăn chặn sự tiến triển của Hội chứng Stevens-Johnson (SJS). Bệnh nhân của chúng tôi đã trải qua một tác dụng phụ không phổ biến, với các tổn thương nổi mụn nước không chàm, sau khi điều trị bằng IVIG. Những tổn thương mới này phát triển nhanh chóng trên lòng bàn tay trong khi hầu hết các tổn thương bọng nước trước đó của SJS đã giảm. Sinh thiết da các tổn thương mới cho thấy có một bọng nước trong lớp sừng, không có hoại tử biểu bì, với sự xâm nhập của các tế bào viêm. Các tổn thương nổi mụn nước do IVIG gây ra được thảo luận, cùng với nguyên nhân có thể của chúng. Với việc sử dụng IVIG ngày càng tăng để điều trị các bệnh lý da bọng nước, việc nhận diện tác dụng phụ hiếm gặp này là quan trọng để chẩn đoán phân biệt kịp thời.
#Hội chứng Stevens-Johnson; Immunoglobulin tĩnh mạch; Tổn thương nổi bọng nước; Tác dụng phụ; Chẩn đoán phân biệt.
7. BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: HIỆU QUẢ CHĂM SÓC TỔN THƯƠNG DA TRONG HỘI CHỨNG STEVEN-JOHSON
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CĐ 12 - Bệnh viện Thủ Đức - Trang - 2024
Mục tiêu: Mô tả một trường hợp lâm sàng về chăm sóc và điều trị tổn thương da trong hội chứng Steven-Johnson tại khoa Hồi sức tích cực chống độc, bệnh viện Thành phố Thủ Đức. Ca bệnh: Người bệnh là nữ 47 tuổi, nhập viện với chẩn đoán viêm túi mật cấp do sỏi, được dẫn lưu túi mật tại khoa Ngoại tổng quát. Ngày thứ 6 sau nhập viện, người bệnh có tình trạng đỏ da nổi bóng nước, phù toàn thân, sốt. Kết quả: Hội chứng Stevens-Johnson nghi do sử dụng thuốc Acupan - NT huyết từ đường mật – Viêm TM cấp do sỏi đã dẫn lưu. NB được chuyển khoa HSTCCĐ. Sau 12 ngày điều trị, ngoài việc sử dụng phác đồ dùng thuốc, chăm sóc các tổn thương niêm mạc, áp dụng các biện pháp giảm đau liên tục cùng với các điều trị hỗ trợ toàn thân khác thì tổn thương da lành tốt, không đỏ da tiến triển, các tổn thương niêm mạc cải thiện cũng như các rối loạn về xét nghiệm máu của bệnh nhân đã hết. Kết luận: Việc phối hợp dùng thuốc, chăm sóc các tổn thương niêm mạc, áp dụng các biện pháp giảm đau liên tục cùng với các điều trị hỗ trợ toàn thân là có hiệu quả tích cực trong quá trình chăm sóc tổn thương da trong Hội chứng Stevens-Johnson/Lyell (SJS/TEN).
#Stevens-Johnson #hiệu quả chăm sóc #tổn thương da
Nhiễm khuẩn bệnh viện trên bệnh nhân hội chứng Stevens - Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc điều trị nội trú tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Khảo sát nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn bệnh viện, vi khuẩn và tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn trên bệnh nhân hội chứng Stevens - Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc (SJS/TEN) nhập viện. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 51 bệnh nhân SJS/TEN nhập Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 15/5/2018 đến ngày 15/10/2019. Bệnh nhân được cấy thương tổn da, máu và làm kháng sinh đồ khi nhập viện, khi nhiễm khuẩn bệnh viện. Kết quả: Bệnh nhân nam 58,8%, và tuổi 45,8 ± 18,4 năm. SJS 33,3%; SJS/TEN 49%; TEN 17,6% và 49% có nhiễm khuẩn da khi nhập viện. Cấy thương tổn da 32 bệnh nhân khi nhập viện: Nhiễm 1 vi khuẩn 40,6%, 2 vi khuẩn (12,5%), trong đó tụ cầu vàng kháng methicillin (33,3%), Staphylococcus epidermidis kháng methicillin (23,8%), P. aeruginosa (14,3%) gặp nhiều. 2/29 bệnh nhân cấy máu (+). 100% tụ cầu vàng kháng methicillin kháng penicilline, cefoxitin; 85,7% kháng clindamycin, gentamycine. Staphylococcus epidermidis kháng methicillin kháng 100% với penicilline, cefoxitin, 80% kháng erythromycin, tetracycline. 2/3 bệnh nhân nhiễm P. aeruginosa kháng gentamycine. Không có nhiễm khuẩn bệnh viện, bệnh nhân nằm viện 10,1 ± 4,4 ngày. Kết luận: Nên cấy thương tổn da và làm kháng sinh đồ trên bệnh nhân SJS/TEN nhập viện. Tụ cầu vàng kháng methicillin, Staphylococcus epidermidis kháng methicillin và P. aeruginosa gặp nhiều và khi dùng kháng sinh ban đầu chú ý tình trạng đề kháng kháng sinh. Từ khóa: Hội chứng Stevens- Johnson, hội chứng hoại tử thượng bì nhiễm độc, nhiễm khuẩn, đề kháng kháng sinh.
#Hội chứng Stevens- Johnson #hội chứng hoại tử thượng bì nhiễm độc #nhiễm khuẩn #đề kháng kháng sinh
39. Viêm tiểu phế quản tắc nghẽn sau hội chứng Stevens Johnson do Mycoplasma Pneumoniae: Báo cáo ca bệnh
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 167 Số 6 - 2023
Hội chứng Stevens Johnson (SJS) là phản ứng quá mẫn qua trung gian miễn dịch, liên quan chủ yếu đến thuốc và nhiễm trùng. Bệnh đặc trưng bởi tổn thương phỏng nước và hoại tử da, niêm mạc lan rộng; diễn biến cấp tính và thường tự giới hạn. Viêm tiểu phế quản tắc nghẽn (BO) là một biến chứng hô hấp hiếm gặp của SJS, xảy ra sau giai đoạn cấp. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nam 32 tháng được chẩn đoán SJS do Mycoplasma pneumoniae với biểu hiện sốt, ho, tổn thương da phỏng nước, loét niêm mạc miệng và viêm kết mạc, xét nghiệm huyết thanh cho Mycoplasma pneumoniae dương tính (IgM > 1352 U/mL). Tổn thương da, niêm mạc cải thiện tốt sau 2 tuần nhưng sau 5 tuần trẻ xuất hiện khò khè, khó thở. Phim chụp cắt lớp vi tính ngực lớp mỏng cho thấy hình ảnh thể khảm, dày thành phế quản và ứ khí phổi. BO là một biến chứng hô hấp muộn, hiếm gặp của SJS. Cần theo dõi lâu dài các biểu hiện hô hấp trên bệnh nhân SJS để chẩn đoán và điều trị sớm bệnh, tránh những tổn thương phổi trầm trọng hơn.
#Viêm tiểu phế quản tắc nghẽn #hội chứng Stevens Johnson #Mycoplasma pneumoniae
Huyết thanh chẩn đoán Mycoplasma pneumoniae ở các bệnh nhân hồng ban đa dạng, hội chứng Stevens-Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 183 Số 10 - Trang 80-89 - 2024
Mycoplasma pneumoniae (M. pneumoniae) không chỉ gây bệnh ở phổi mà còn gây các biểu hiện ở da-niêm mạc. Nghiên cứu mô tả cắt ngang này được tiến hành trên 54 bệnh nhân hồng ban đa dạng (erythema multiforme-EM), 30 bệnh nhân hội chứng Steven-Johnson (Stevens-Jonhson syndrome-SJS)/hoại tử thượng bì nhiễm độc (toxic epidermal necrolysis-TEN) và 30 người khỏe mạnh nhằm xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính với M. pneumoniae và mối liên quan của vi khuẩn này với đặc điểm lâm sàng. Kết quả cho thấy, tỷ lệ huyết thanh dương tính với IgG và IgM M. pneumoniae của nhóm SJS/TEN lần lượt là 13,33% và 33,33%; của nhóm EM là 20,37% và 25,93%; của nhóm khỏe mạnh là 10% và 16,67%. Sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê. Trong nhóm SJS/TEN, tỷ lệ IgM M. pneumoniae dương tính ở nhóm < 50 tuổi là 53,33%, cao hơn so với nhóm ≥ 50 tuổi, p < 0,05; trong nhóm EM, tỷ lệ IgM M. pneumoniae dương tính ở nhóm < 30 tuổi là 40%, cao hơn so với nhóm ≥ 30 tuổi, p < 0,05; trong nhóm khỏe mạnh, không có sự khác biệt theo tuổi. Trong nhóm EM, tỷ lệ huyết thanh IgM M. pneumoniae dương tính của nhóm có sốt là 77,78%; của nhóm không có sốt là 15,56%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,0005; không có sự khác biệt giữa nhóm có thương tổn niêm mạc với nhóm không có.
#Hoại tử thượng bì nhiễm độc #hồng ban đa dạng #hội chứng Steven-Johnson #Mycoplasma pneumoniae.
NỒNG ĐỘ HUYẾT THANH INTERLEUKIN-10, -12 VÀ -17A TRONG HỘI CHỨNG STEVENS-JOHNSON, HOẠI TỬ THƯỢNG BÌ NHIỄM ĐỘC VÀ HỒNG BAN ĐA DẠNG
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ huyết thanh các interleukin (IL)-10, -12, -17A và mối liên quan với tiến triển của hội chứng Stevens-Johnson (SJS) và hoại tử thượng bì nhiễm độc (TEN) trên lâm sàng, cũng như so sánh với hồng ban đa dạng (EM). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Có 48 bệnh nhân SJS/TEN; 43 bệnh nhân hồng ban đa dạng (EM) và 20 người khỏe mạnh (HCs) tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân được khám lâm sàng, hỏi bệnh sử, tiền sử và lưu các mẫu huyết thanh. Sử dụng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch vi hạt đánh dấu huỳnh quang (fluorescence covalent microbead immunosorbent assay) phát hiện đồng thời nhiều cytokin: IL-10, IL-12 và IL-17A. Kết quả: Nồng độ IL-10 huyết thanh ở nhóm SJS/TEN lúc nhập viện là 8,4 pg/ml, không khác biệt so với nhóm EM và nhóm HCs, giữa nhóm SJS và TEN là như nhau. Lúc tái tạo thượng bì (TTTB), nồng độ IL-10 giảm xuống còn 4,9 pg/ml (p>0,05). Nồng độ IL-12 ở nhóm SJS/TEN cao hơn so với nhóm EM (p<0,001) nhưng tương đương nhóm HCs. Tại thời điểm TTTB, nồng độ IL-12 giảm nhiều so với lúc nhập viện (p<0,01). Nồng độ IL-17A lúc nhập viện của nhóm SJS/TEN là 0,6 pg/ml, không khác biệt so với nhóm EM (0,4 pg/ml), với p>0,05; và tương đương với nhóm HCs. Lúc TTTB, nồng độ IL-17A tăng lên, cao hơn lúc nhập viện (p>0,05). Kết luận: Ở nhóm SJS/TEN, nồng độ huyết thanh IL-12 cao hơn so với nhóm EM, tại thời điểm nhập viện, nồng độ này cao hơn so với lúc TTTB. Nồng độ huyết thanh IL-10 và IL-17A ở nhóm SJS/TEN không cao hơn so với nhóm EM và không có sự thay đổi rõ rệt theo tiến triển của SJS/TEN trên lâm sàng.
#hội chứng Stevens-Johnson #hoại tử thượng bì nhiễm độc #cytokin #interleukin-10 #interleukin-12 #interleukin-17A
Tổng số: 8   
  • 1